Sau sự cố hacker tấn công trang http://thuphapviet.coo.vn V2 chúng tôi đã nâng cấp lên V3 với nhiều tính năng và hỗ trợ trực tuyến các bạn nhiều hơn, tuy đã nâng lên V3 http://thuphapviet.cz.cc nhưng còn hạn chế vì thời gian quá gấp rút, mong các bạn có nhu cầu đăng kí lại ở diễn đàn mới
Bạn có muốn phản ứng với tin nhắn này? Vui lòng đăng ký diễn đàn trong một vài cú nhấp chuột hoặc đăng nhập để tiếp tục.

THƯ PHÁP VIỆT


 
HOMEHOME  LIÊN HỆLIÊN HỆ  Trang ChínhTrang Chính  PortalPortal  Latest imagesLatest images  Tìm kiếmTìm kiếm  Đăng kýĐăng ký  Đăng NhậpĐăng Nhập  

 

 TAM TỰ KINH

Go down 
Tác giảThông điệp
ĐINH HOÀNG
Admin
Admin



Tổng số bài gửi : 65
Join date : 23/07/2010

TAM TỰ KINH Empty
Bài gửiTiêu đề: TAM TỰ KINH   TAM TỰ KINH EmptySat Jul 24, 2010 10:36 am

lol!
[You must be registered and logged in to see this link.]
Mình xin đánh lại quyển TAM TỰ KINH của học giả Đoàn Trung Còn được tái bản
“TAM TỰ KINH” là sách học vỡ lòng của con trẻ Trung Quốc và cả Việt Nam thời xưa, được soạn từ đời TỐNG (960-1279), đến các đời MINH, THANH lại được bổ sung. Nội dung của sách chỉ hơn một ngàn chữ (1000); bố trí ba chữ một câu có vần, do đó mà đặt tên là TAM TỰ KINH. Nhưng sao gọi là Kinh? Nó có phải như lời của Lưu Hiệp nói trong Văn Tâm Điêu Long là do thánh nhân chế tác nên gọi là Kinh (Thánh nhân chế tác viết Kinh, Hiền giả trứ thuật viết Truyện). Sách không hẳn là do thánh nhân làm ra, nhưng nó là kết tinh của sách vở thánh hiền truyền lại. Chỉ hơn một ngàn chữ mà nêu ra đủ trọng tâm các vấn đề: Từ bản tính sơ sinh “Tính tương cận, Tập tương viễn” đến giáo pháp, giáo đạo “Ngọc bất trác bất thành khí, nhân bất học bất tri lý”, Tu tề, Hiếu để, từ bản thân đến vạn vật, vũ trụ: Tam tài, tam quang, tam cương, ngũ hành, ngũ nghĩa, ngũ thường… Tứ thư, Ngũ kinh, gương chuyên cần, đạo xử thế…, còn lược kê cả những diễn biến lịch sử Trung Quốc từ Phục Hy, Thần Nông đến Minh, Thanh v.v… Sách vỡ lòng được soạn như vậy thật quá chu đáo, dù không học nhiều, nhưng với 1000 chữ, khi nắm vững được nghĩa lý, cũng khã dĩ cho con người có một khái niệm vững chắc về cuộc sống; về đạo đời, là mẫu mực sáng giá cho đến ngày nay.
lol!

[1]人之初 : NHÂN CHI SƠ,
性本善. : TÁNH BỔN THIỆN.
[2]性相近, : TÁNH TƯƠNG CẬN,
习相远. : TẬP TƯƠNG VIỄN
.

[1] Thường thường người ta hiểu rằng: Người ta lúc ban đầu, tức là khi mới sanh ra và còn bé, thì cái Tánh vốn lành. Nếu cố chấp như vậy, tưởng chưa đúng hẳn. Là vì, có nhiều đứa bé, vừa năm bảy tháng hoặc một hai tuổi, đã cho thấy cái ý chẳng lành của chúng nó rồi: hoặc cắn vúthì cái Tánh vốn lành. Nếu cố chấp như vậy, tưởng chưa đúng hẳn. Là vì, có nhiều đứa bé, vừa năm bảy tháng hoặc một hai tuổi, đã cho thấy cái ý chẳng lành của chúng nó rồi: hoặc cắn vú mẹ, hoặc đập phá đồ, xé rách quần áo, ăn đồ nhơ uế, và hay giận dữ. Vậy thì con người ta lúc còn bé, chưa hẳn có tánh trọn lành. Ai có hấp thọ Nhiệp quả nhà Phật, ắt công nhận lẽ ấy. Tuy vậy, cái bổn Tánh thiên nhiên của người ta vốn lành. Vậy nên hiểu: Cái Tánh thiên nhiên của người ta, cái Tánh vốn Trời phú cho từ lúc đầu, thì vốn lành.

[2] Cái bẩm tánh lành ban sơ làm cho họ gần giống nhau; tới chừng lớn lên, mỗi  người tập theo mỗi thói quen, rồi thành ra có người lành, kẻ dữ mà xa khác nhau. Tỷ dụ: 1. vị giáo sư, nhà tu sĩ; 2. kẻ bán thịt, người thợ săn.

[3]苟不教,    CẨU BẤT GIÁO,
性乃迁。   TÁNH NÃI THIÊN.
教之道,   GIÁO CHI ÐẠO,
贵以专。   QUÝ DĨ CHUYÊN
.
[3] Bởi vậy cho nên nếu chẳng có sự giáo hóa của cha, của thầy thì cái tánh lành ban đầu sẽ dời qua tánh dữ, biến chuyển theo cảnh xấu chung quanh.


[1+2]昔孟母,   TÍCH MẠNH MẪU,
择邻处。   TRẠCH LÂN XỬ.
子不学,   TỬ BẤT HỌC,
断机杼。   ÐOẠN CƠ TRỬ.
[3]窦燕山,   ÐẬU YÊN SƠN,
有义方。   HỮU NGHĨA PHƯƠNG.
教五子,   GIÁO NGŨ TỬ,
名俱扬。   DANH CU DƯƠNG.
[1+2]Thầy Mạnh tử tên là Kha, tự Tử Dư, nguyên là dòng giống họ Mạnh Tôn, nhà Đại phu nước Lỗ, về sau dời qua ở nước Châu (ấp Trâu). Cha là Khích công Nghi, mẹ là Cừu thị, người đời Đông Châu Chiến quốc (403-221 trước Dương lịch). Ông thác sớm, bà thủ tiết, dạy thầy Mạnh rất chuyên cần: lựa chọn hàng xóm hạp với sự học, ba lần dời, tới bên trường học mới ở. Thầy Mạnh thuở nhỏ theo học với đệ tử ông Tử Tư, một ngày kia chán mỏi trở về; nhằm lúc bà đương dệt cửi, thấy con biếng học thì giận mà chặt đứt cả khung cửi và thoi dệt. Thầy Mạnh sợ hãi, quì mà hỏi cớ, bà trách mắng rằng: “Nghề dệt cửi phải chắp nối từng sợi tơ mới thành tấm hàng là đồ dùng được. Việc học của mầy cũng vậy, phải tiếp nối ngày tháng mới có thể thành tài. Nay mầy làm biếng mà bỏ bẵng đi, có khác gì cái khung cửi của ta chặt đứt ngang hay chăng?” Từ đó thầy Mạnh phải chăm chỉ học hành, trở nên trang đại hiền, làm ra sách Mạnh tử.  
[3] Ông họ Đậu, tên Vũ Quân, người U Châu, nhân đất ấy thuộc nước Yên đời Châu, cho nên đặt tên hiệu là Yên sơn. Người đời Hậu Tấn (Ngũ đại 936-946), sanh năm con là: Nghi, Nghiêm, Khản, Xứng, Hy, do ông đem nghĩa phương dạy rất chuyên cần, nên đều đặng thành danh, làm nên quan sang đời ấy.

养不教,   DƯỠNG BẤT GIÁO,
父之过。   PHỤ CHI QUÁ
教不严,   GIÁO BẤT NGHIÊM,
师之惰。   SƯ CHI ÐỌA.
子不学,   TỬ BẤT HỌC,
非所宜。   PHI SỞ NGHI.
幼不学,   ẤU BẤT HỌC,
老何为。   LÃO HÀ VI.
Nuôi con mà chẳng dạy dỗ, ấy là lỗi của người cha; Dạy học mà chẳng nghiêm chỉnh, ấy là quấy của ông thầy. Kẻ làm con mà chẳng học, chẳng phải lẽ nên vậy. Lúc trẻ chẳng học, lúc già sẽ làm gì?

玉不琢,   NGỌC BẤT TRÁC,
不成器。   BẤT THÀNH KHÍ.
人不学,   NHÂN BẤT HỌC,
不知理。   BẤT TRI LÝ.
为人子,   VI NHÂN TỬ,
当少时。   ĐƯƠNG THIẾU THỜI.
亲师友,   THÂN SƯ HỮU,
习礼仪。  TẬP LỄ NGHI.
Tỷ như hòn ngọc chẳng đẽo, chẳng nên món đồ; Người ta chẳng học, cũng chẳng biết nghĩa lý. Cho nên phận làm con, đương lúc còn trẻ, phải thân cận với thầy, bạn để học tập lễ, nghi.


香九龄,  HƯƠNG CỬU LINH,
能温席。   NĂNG ÔN TỊCH.
孝于亲,   HIẾU Ư THÂN,
所当识。   SỞ ÐƯƠNG THỨC.
融四岁,   DONG TỨ TUẾ,
能让梨。   NĂNG NHƯỢNG LÊ.
弟于长,  ÐỄ Ư TRƯỞNG,
宜先知。   NGHI TIÊN TRI.

Kìa như người Hương [2] mới chín tuổi đã biết ủ ấm chiếu mền cho cha; ấy là gương hiếu đối với đấng thân mà trò cần phải biết. Lại như người Dong mới bốn tuổi mà biết nhường trái lê [3]; ấy là gương thảo đối với huynh trưởng mà trò cũng cần phải học trước.
[2] Người họ Hoàng, tên Hương, vự Văn Cường, huyện An Lục thuộc quận Giang Hạ trong đời Đông Hán (25-219), sớm mồ côi mẹ, mới được chín tuổi, thờ cha rất hiếu: mùa hạ nóng nực, thì quạt gối, chiếu cho cha nằm được mát; mùa đông lạnh lẽo, thì lấy mình ủ mền, nệm cho cha nằm được ấm. Vì vậy tiếng hiếu đồn xa, có câu khen: “Thiên hạ vô song, Giang hạ Hoàng đồng 天下無雙江厦黃童  (Trong thiên hạ không có ai sánh đôi với đứa con nít nhà họ Hoàng ở quận Giang hạ). Ấy là một trang hiếu tử trong sách “Nhị thập tử hiếu” vậy. Lớn lên học rộng văn hay, làm quan tới Thượng thơ lệnh. [3] Người họ Khổng, tên Dong, tự Văn Cử, dòng giống 22 đời của đức Khổng Tử, mới được bốn tuổi đã biết lễ tốn nhượng: một ngày kia có người láng giềng đem cho một giỏ trái lê, các anh đều lựa lấy trái lớn, duy có Dong thủng thẳng lượm lấy một trái nhỏ. Người ta hỏi rằng: “Sao mầy không lấy trái lớn?” Dong đáp rằng: “Các anh tôi lớn tuổi thì ăn trái lớn; còn tôi là em và nhỏ tuổi, sao dám giành anh, đặng mang tội hỗn và tham”. Lớn lên làm quan đời vua Hiến đế (190-219) nhà Đông Hán, chức thái thú quận Bắc Hải, lần thăng tới Thái Trung Đại phu, sau vì nghịch với Tào Tháo, nên bị nó giết.

首孝悌,   THỦ HIẾU ÐỄ,
次见闻。   THỨ KIẾN VĂN.
知某数,   TRI MỖ SỐ,
识某名。   THỨC MỖ DANH.
一而十,   NHẤT NHI THẬP,
十而百。   THẬP NHI BÁ.
百而千,    BÁ NHI THIÊN,
千而万。   THIÊN NHI VẠN.

Về việc học thì đầu hết là hiếu với cha, thảo với anh; kế đó là thấy và nghe. Nên học cho biết số, biết tên: Từ số một đến số mười, từ số mười đến số trăm, Từ số trăm đến số ngàn, từ số ngàn đến số muôn [1].

[1] Bốn câu trên đây là nghĩa “Biết số”; còn từ câu “Tam tài giả” kế đây sắp xuống là nghĩa “Biết tên”, tức là hiểu biết các sự vật, đạo lý… dưới đây.
-----Tạm thời thế đã-ngày mai tiếp----
Về Đầu Trang Go down
https://thuphapviet.forumvi.com
ĐINH HOÀNG
Admin
Admin



Tổng số bài gửi : 65
Join date : 23/07/2010

TAM TỰ KINH Empty
Bài gửiTiêu đề: TAM TỰ KINH -TIẾP-   TAM TỰ KINH EmptySun Jul 25, 2010 1:42 pm

三才者,    TAM TÀI GIẢ,
天地人。   THIÊN ÐỊA NHÂN.
三光者,    TAM QUANG GIẢ,
日月星。   NHẬT NGUYỆT TINH.
三纲者,    TAM CƯƠNG GIẢ,
君臣义。    QUÂN THẦN NGHIÃ.
父子亲,    PHỤ TỬ THÂN,
夫妇顺。   PHU PHỤ THUẬN.


Ba bậc tài là: Trời Đất và Người [2]. Ba chất sáng là: mặt trời, mặt trăng và các ngôi sao [3]. Ba giềng là: Quốc trưởng và bề tôi có nghĩa; Cha, con thân nhau; vợ chồng thuận nhau [4].

[2] Khí dương bốc lên làm Trời, khí âm kết lại làm Đất, Người ta ở giữa tham hiệp âm, dương; giúp công hóa dục muôn vật của Trời Đất. Kinh Dịch nói rằng: “Lập nên Đạo Trời là khí âm và khí dương”, ấy là tài của Trời; rằng: “Lập nên Đạo Đất là chất nhu và chất cang”, ấy là tài của Đất; rằng: “Lập nên Đạo Người là đức nhân và đức nghĩa”, ấy là tài của Người. Vậy Trời, Đất và Người là ba bậc tài ở trong đời. [3] Mặt trời, mặt trăng và các ngôi sao là ba chất sáng nhất ở trong bầu trời, ngày đêm tiếp nhau soi rạng trên mặt trái đất. [4] Quốc trưởng làm giềng cho bề tôi noi theo, mà nên có nghĩa; cha làm giềng cho con noi theo, mà nên có tình thân; chồng làm giềng cho vợ noi theo, mà nên hòa thuận; như ở tấm lưới, các mắt đều theo về giềng vậy.


曰春夏,   VIẾT XUÂN HẠ,
曰秋冬。  VIẾT THU ÐÔNG.
此四时,   THỬ TỨ THỜI,
运不穷。   VẬN BẤT CÙNG.
曰南北,  VIẾT NAM BẮC,
曰西东。  VIẾT TÂY ÐÔNG.
此四方,   THỬ TỨ PHƯƠNG,
应乎中。   ỨNG HỒ TRUNG
.

Mùa xuân, mùa hạ, mùa thu, mùa đông, đó là bốn mùa, xây vần chẳng cùng [1]. Phương Nam, phương Bắc, phương Tây, phương Đông, đó là bốn phương [2], ứng về lối giữa.

[1] Mùa nầy tiếp với mùa kia, mùa kia truyền qua mùa nọ, xây chuyển luôn luôn, làm cho muôn vật sanh, trưởng, biến hóa lần hồi chẳng cùng. [2] Phương Nam thuộc hành hỏa, phương Bắc thuộc hành Thủy, phương Đông thuộc hành mộc, phương Tây thuộc hành Kim, đều ứng vào phương trung ương thuộc hành thổ.



曰水火,   VIẾT THỦY HỎA,
木金土。   MỘC KIM THỔ.
此五行,  THỬ NGŨ HÀNH,
本乎数。   BỔN HỒ SỐ.
曰仁义,   VIẾT NHÂN NGHĨA,
礼智信。   LỄ TRÍ TÍN.
此五常,   THỬ NGŨ THƯỜNG,
不容紊。   BẤT DONG VẶN.

Chất nước, chất lửa, chất cây, chất kim, chất đất, đó là năm chất hành, gốc ở số [1]. Nhân, nghĩa, lễ, trí, tín, đó là năm đạo thường, chẳng nên làm cho rối loạn [2].

[1] Coi số điểm trong Hà Đồ ở kinh Dịch: số 1 của Trời sanh ra hành thủy, số 6 của Đất thành cho nó; số 2 của Đất sanh ra hành hỏa, số 7 của Trời thành cho nó; số 3 của Trời sanh ra hành mộc, số 8 của Đất thành cho nó; số 4 của Đất sanh ra hành kim, số 9 của Trời thành cho nó; số 5 của Đất sanh ra hành thổ, số 10 của Đất thành cho nó. Ấy là năm chất hành gốc ở số hành 行 , nghĩa là lưu hành đi khắp bốn mùa và bốn phương, đặng sanh dục cho muôn vật, lợi dụng cho muôn việc. [2] Nhân là lòng từ thiện, Nghĩa là việc nên làm, Lễ là nghi tiết tốn nhượng, Trí là ý khôn biết phải quấy, Tín là lòng tin thật; người ta phải giữ năm đạo đó làm thường, chẳng nên để rối loạn.


稻粱菽,   ÐẠO LƯƠNG THÚC,
麦黍稷。   MẠCH THỬ TẮC.
此六谷,  THỬ LỤC CỐC,
人所食。   NHÂN SỞ THỰC.
马牛羊,   MÃ NGƯU DƯƠNG,
鸡犬豕。   KÊ KHUYỂN THỈ.
此六畜,   THỬ LỤC SÚC,
人所饲。   NHÂN SỞ TỰ.


Đạo, lương, thúc, mạch, thử, tắc, đó là sáu giống lúa mà người ta ăn [3]. Ngựa, bò (trâu), dê, gà, chó, heo, đó là sáu giống súc mà người ta nuôi [4].

[3] Đạo là lúa nếp bẹ, dùng để làm bột và nấu rượu; Lương là lúa kê, dùng để nấu cháo hay là làm bánh ướt; Thúc là các thứ đậu, dùng làm các món ăn; Mạch là thứ lúa cấy về mùa thu, gặt về mùa hạ, tục gọi là lúa chiêm; Thử là lúa bắp; Tắc là lúa nếp, dùng để nấu xôi, làm bánh, đều là những món người ta thường ăn.
[4] Súc là sáu giống nuôi, sáu giống ấy là những con vật người ta thường nuôi trong nhà, dùng để làm việc hay là để ăn
thịt.



曰喜怒,   VIẾT HỶ NỘ,
曰哀惧。   VIẾT AI CỤ.
爱恶欲,   ÁI Ố DỤC,
七情具。   THẤT TÌNH CỤ.
匏土革,   BÀO THỔ CÁCH,
木石金。   MỘC THẠCH KIM.
与丝竹,  DỮ TY TRÚC,
乃八音。  NÃI BÁT ÂM.


Mừng, giận, bi thương, sợ, yêu, ghét và muốn là bảy tình mà ai cũng có đủ cả [2]. Bầu, đất, da, gỗ, đá, kim, với tơ, trúc là tám thứ âm nhạc [3].

[2] Đem cái tánh đối với các sự vật trong đời, nhân cảm xúc mà phát ra, thì con người ta ai cũng có đủ bảy tình ấy, có điều phát ra theo lẽ chánh thì là thánh hiền; phát ra theo lẽ tà thì là ngu, bất tiếu. [3] Bào là vỏ trái bầu già, đồ âm nhạc thời xưa làm 17 cái ống trúc ghép ở trong vỏ trái bầu đặng thổi thành tiếng; Thổ là đồ âm nhạc nắn bằng đất un, như cái huân, cái phẫu, đặng gõ thành tiếng; Cách là cái trống bịt bằng da thú; Mộc là đồ âm nhạc bằng gỗ, như cái mõ, cái phách; Thạch là cái khánh bằng đá; Kim là âm nhạc bằng loài kim, như: chuông, kiểng, chiêng, lịnh… Ty là dây đờn bằng tơ; Trúc là ống sáo, ống quyển bằng trúc.


高曾祖,   CAO TẰNG TỔ,
父而身。   PHỤ NHI THÂN.
身而子,   THÂN NHI TỬ,
子而孙。    TỬ NHI TÔN.
自子孙,   TỰ TỬ TÔN,
至曾玄。    CHÍ TẰNG HUYỀN.
乃九族 ,     NÃI CỬU TỘC,
人之伦。   NHÂN CHI LUÂN.

Ông sơ, ông cố, ông nội, cha đến mình, mình đến con, con đến cháu, từ con, cháu, đến chắt, chít, tức là chín đời trong họ [1], thứ bậc của người ta.

[1] Do đời mình tính ngược lên bốn đời trên; do đời mình tính xuôi sắp xuống bốn đời dưới, ấy là chín đời. Cửu tộc là chín đời, nghĩa là tất cả những đồng một họ chung ông tổ chín đời.


父子恩 ,     PHỤ TỬ ÂN,
夫妇丛。    PHU PHỤ TÒNG.
兄則友 ,     HUYNH TẮC HỮU,
弟则恭。   ÐỆ TẮC CUNG.
长幼序,   TRƯỞNG ẤU TỰ,
友与朋。   HỮU DỮ BẰNG.
君则敬,   QUÂN TẮC KÍNH,
臣则忠。   THẦN TẮC TRUNG.
此十义,   THỬ THẬP NGHĨA,
人所同。   NHÂN SỞ ÐỒNG.


Cha con có ơn, vợ chồng theo nhau, Anh thì thảo, em thì cung [2], lớn, nhỏ có bậc, bạn với bầy đồng nhau, vua thì kính [3], tôi thì trung. Đó là mười nghĩa [4] mà mọi người đều có như nhau [5].

[2+3] Cung 恭  với Kính 敬  đều là nghĩa kính trọng, mà có ý phân biệt: Cung là lễ kính, nghĩa là cái vẻ khiêm tốn hiện ra ngoài mặt; Kính là lòng kính, nghĩa là cái ý thành khẩn căn ở trong lòng. [4] Mười nghĩa (thập nghĩa) là mười đức tốt theo trong sách lễ ký: 1. Phụ từ, 2. Tử hiếu, 3. Phu nghĩa, 4. Phụ thính, 5. Huynh lương, 6. Đệ đễ, 7 Trưởng huệ, 8. Ấu thuận, 9 Quân nhân, 10. Thần trung. [5] Từ câu Tam tài giả 三才者  trên đây cho tới câu Nhân sở đồng 人所同  nầy, là chỉ cho biết những tên: Tam tài, Tam quang, Tam cang (cương), tứ thì, Tứ phương, Ngũ hành, Ngũ thường, Lục cốc, Lục súc, Thất tình, Bát âm, Cửu tộc, Thập nghĩa. Đó là nghĩa Thức mỗ danh 识某名 , mà cũng ngậm ý Tri mỗ số 知某数 , vì tên gì cũng có số, những tên dưới đây cũng vậy.
Mai mình post tiếp
Về Đầu Trang Go down
https://thuphapviet.forumvi.com
 
TAM TỰ KINH
Về Đầu Trang 
Trang 1 trong tổng số 1 trang
 Similar topics
-
» THƯ PHÁP VÀ KINH DỊCH-DONGPHUONGSOC-
» TAM TỰ KINH- Không giảng nghĩa

Permissions in this forum:Bạn không có quyền trả lời bài viết
 :: XƯỚNG HỌA-CỔ VĂN :: CỔ VĂN-
Chuyển đến